dân tộc nùng lạng sơn

Tuy nhiên, với người dân tộc Tày, Nùng ở Lạng Sơn, dịp rằm tháng 7 Âm lịch còn được gọi với một cái tên vô cùng đặc biệt. Đó là Tết Pây Tái. Cái tên đặc biệt - "Pây Tái" Pây Tai hay Pây Tái có nguồn gốc từ tiếng của người dân tộc Tày, Nùng. Lạng Sơn 1 miền sơn cước đẹp, nơi đặc trưng có dân tộc Tày - Nùng, chính vì vậy mô hình homestay Lạng Sơn đã được dần hình thành theo nét văn hóa cộng đồng. Cùng review.vnhomestay.com.vn khám phá ngay top 10 cái tên homestay ở Lạng Sơn thể hiện đúng tinh thần đó. 1-Homestay Cát Dương Địa chỉ: Quỳnh Sơn - Bắc Sơn - Lạng Sơn Lạng Sơn là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Nùng, Tày, Kinh, Mông Dao, Sán Chay… Trải qua bao đời nay, cùng với quá trình sinh tụ và phát triển họ đã kiến tạo nên những bản làng trù phú, tươi đẹp nơi biên cương địa đầu của Tổ quốc. Lạng Sơn là một tỉnh miền núi ở vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam . Năm 2018, Lạng Sơn là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 52 về số dân, xếp thứ 51 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 47 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 20 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Về cơ bản, Dân ca Cao Lan bao gồm các thể loại: Thsăn lèn (mừng năm mới), Thsao bạo (đối giao duyên), Kên láu (hát đám cưới), Tò tan (hát đố), …. Cùng sinh sống bên những dãy núi, sườn đồi tươi đẹp ấy, người Sán Chí ở Bắc Giang lại sở hữu loại hình dân ca mang Site De Rencontre Payant Par Telephone. Từ nhiều đời nay, người Nùng sống ở xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn sở hữu một bí thuật lạ lùng. Bệnh nhân dù rách da, đứt gân, vết thương máu chảy đầm đìa, nhưng khi tìm đến đây, người Nùng chỉ cần đọc một câu thần chú là có thể cầm máu ngay lập tức. Thuật cầm máu lạ kỳ Những người biết bùa chú này hiện còn lại rất ít, hầu hết đều vào cái tuổi gần đất xa trời. Một trong số những người đó là ông già mù Thi Giẳng ở thôn Đồng Đĩnh, xã Chi Lăng. Ông Giẳng năm nay đã 78 tuổi, đôi mắt mù lòa từ lúc bẩm sinh, chưa một lần biết đến ánh mặt trời. Ông Giẳng có đôi tai rất to, giọng nói sang sảng và đặc biệt tỏ ra vô cùng nhanh nhẹn. “Lão mù Thi Giẳng” bồi hồi kể lại ngày lặn lội đi học bùa chú Khi tôi hỏi về thuật cầm máu của người Nùng, ông Giẳng hướng đôi mắt mù lòa về phía tôi rồi trầm ngâm kể chuyện “Ngày xưa, lão đam mê thuật này lắm. Được biết thôn Quán Thanh Chi Lăng có một ông thầy cao tay về thuật này, lão dò dẫm tìm đường đến bái sư. Nhưng người thầy thấy lão mù lòa, dáng hình lại cổ quái nên kiên quyết không dạy. Được cái lão nhanh trí, biết thầy nghiện thuốc nặng nên lặn lội đi mua thuốc về biếu. Nhưng cũng phải vài lần, thầy mới chịu nhận lão làm đệ tử.” Tuy ông mù, không đọc được chữ nhưng chỉ nghe khẩu quyết vài lần là nhớ. Có lần, thầy muốn kiểm tra xem bùa chú có ở lại với ông Giẳng không bèn chặt một cây chuối non để nhựa cây trào ra xối xả. Ông Giẳng không ngần ngại đọc chú, nhựa cây đột nhiên ngừng chảy hẳn. Lần khác, thầy dùng cây xương rồng để thử tài ông Giẳng. Ông Giẳng nín hơi, đọc một mạch câu thần chú, y rằng nhựa không chảy ra nữa. Theo ông Giẳng, thuật niệm chú chữa thương áp dụng tốt cho người bị chảy máu ngoài da, còn những trường hợp đứt cụt hẳn ngón tay, ngón chân thì ông chưa từng gặp bao giờ. “Trường hợp nặng nhất tôi từng cầm máu là ông Bình ở thôn Quán Thanh. Năm 1960, ông này đi chặt cây thuốc lá, chẳng may bị dao lia vào chân, máu chảy xối xả, được người dân dìu vào nằm ở bờ sông. Có người lấy xe đạp chở tôi đến cầm máu cho ông Bình. Đọc chú được một lúc, máu ngừng chảy, tôi lấy giẻ rách bịt vào chân để người ta cõng ông ấy sang sông về nhà", ông Giẳng kể. Điều quan trọng nhất trong thuật cầm máu là phải nín hơi rồi đọc liền mạch câu thần chú mà không được thở, không để ngắt quãng. Cũng vì đã quá già, phổi không còn khỏe để nín hơi dài cả phút như trước nên đã 4 năm nay, ông Thi Giẳng chỉ chữa cho vài trường hợp chảy máu trầm trọng. Có lần, chính vợ của ông đang băm rau lợn thì vô tình để dao băm vào giữa ngón tay cái. Cũng may, ông đọc chú kịp thời mà bà cầm máu được ngay. Đến bây giờ, ngón tay bà vẫn còn một vết sẹo rất dài. Bài thuốc "của trời" nối liền xương gãy Ngoài ông Thi Giẳng, ở xã Chi Lăng, người biết đến thuật cầm máu bí truyền này phải kể đến vợ chồng ông Nông Quốc Vinh và bà Triệu Thị Cỏ. Khi ông Vinh đọc thần chú thì vết rách, vết đứt dù sâu đến đâu, dù máu chảy nhiều thế nào cũng đều có thể cầm máu. Còn bà Cỏ thì có vị thuốc bí truyền được bào chế từ 7 cây thuốc quý có thể làm lành xương khớp bị gãy chỉ trong 1 đến 2 tuần. 5 trong số 7 vị thuốc đó còn chưa có trong danh sách thảo dược của Nhà nước. Bà Triệu Thị Cỏ vui vẻ tiếp chuyện phóng viên. Ông Vinh năm nay đã 70 tuổi, còn bà Cỏ hơn chồng 2 tuổi. Trước đây, bà Cỏ là người Nùng ở sâu trong núi Vạn Linh, phải qua một con đèo khúc khuỷu mới đến được bản của bà. Ông Vinh đến với bà cũng là duyên phận, quý nhau từ bài thuốc, miếng bùa. Những ngày tháng chiến tranh đói nghèo, y học còn lạc hậu, chỉ với bài thuốc quý và câu thần chú, ông bà đã cứu bao nhiêu người khỏi mất mạng. Ông Vinh kể, ông được bố đẻ là ông Nông Văn Lộc đã mất truyền lại cho thuật cầm máu từ hồi nhỏ. Khẩu quyết niệm chú rất đơn giản, không cần bất cứ thủ tục cúng lễ gì khi thực hiện. Ông Vinh tụt dép, kéo quần lên chỉ cho tôi xem một vết sẹo rất sâu nơi ngón chân cái. “Một lần bất cẩn, tôi bị búa chặt vào chân, máu phun ra xối xả. Cởi giày ra, tôi lấy tay bóp mạnh chỗ vết thương rồi đọc thần chú. Đọc xong, ngón chân không chảy thêm một giọt máu nào nữa. Khu vực núi đó cách nhà chừng 9 km nhưng tôi vẫn tập tễnh đi bộ về lấy thuốc đắp cho liền thịt. Vài ngày sau thì lại đi làm bình thường được”, ông Vinh khoái chí kể. Bà Cỏ dù tuổi cao nhưng vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Hỏi chuyện về bài thuốc chữa gãy xương, bà tự hào cho biết, cả vùng này chỉ mình bà biết cây thuốc để chữa. Bài thuốc này muốn công hiệu phải kiếm đủ 7 loài cây mà bà gọi là “7 cây thuốc trời”. Trong đó, chỉ có 1 cây mọc ven bờ ruộng, còn 6 cây khác mọc trên núi đá, phải tùy mùa mới có thể tìm được. Khi tìm đủ vị thuốc rồi, có loại lấy lá, có loại lấy thân, loại thì lấy rễ, đem băm nhỏ rồi sao khô. Người bị thương phải dùng nẹp tre cố định lại chỗ gãy, sau đó dùng rượu nặng tẩm vào thuốc đắp lên đó rồi bó vào. Bài thuốc này ngoài công dụng chữa gãy xương còn có thể làm lành vết thương rất hiệu quả. Bà Cỏ kể, cách đây khoảng một năm, có cô hàng xóm tên Bình gặp tai nạn xe máy, ngón tay út bị dập nát. Khi cấp cứu tại bệnh viện tỉnh, các bác sĩ khâu để cầm máu nhưng vết thương bị nhiễm trùng, chỉ còn cách tháo khớp ngón tay mới có thể cứu được. Cô Bình đã xin ra viện để về nhà suy nghĩ. Sau đó, cô cầu cứu tới phương thuốc bí truyền của bà Cỏ. Bà chữa đúng phép, chỉ 2 tuần sau, ngón tay cô Bình gần như đầy thịt, cũng không còn nhiễm trùng, sau 1 tháng là đã tháo băng. Theo lời bà Cỏ, mọi ca bệnh đến xin thuốc của bà đều khỏi, nhưng chỉ có trường hợp của cô gái tên Thắng khiến cho bà luôn áy náy. Năm đó, Thắng mới 15 tuổi, một lần đi chăn trâu bị ngã gãy xương khuỷu tay, được người nhà vội vã đưa đến nhà bà Cỏ. Bà lấy 4 thanh tre nẹp vào rồi bó thuốc cho cô. Nhưng do thấy bệnh nhân đau khóc dữ quá, bà bị cuống, lựa nhầm một thanh tre non làm nẹp, khiến cho xương tay của Thắng sau khi lành đã bị cong. Hai năm trở lại đây, vì tuổi cao sức yếu, không đủ sức lên tận đỉnh núi cao hái thuốc, bà Cỏ liền lấy vài loài cây hợp đất về trồng trong vườn. Bà bảo vườn thuốc của bà quý nhất là loài cây “Mắc chẻ phạ” quả của trời. Cây mọc như cây bụi, quả nhỏ li ti màu đỏ tía. Cây này rễ dùng ngâm rượu chữa bệnh kiết lị, đại tràng, đường ruột rất tốt. Còn quả của cây khi chín đem về ngâm rượu, đau răng chỉ làm một ngụm ngậm 5 phút là hết hẳn. Vườn nhà bà Cỏ còn có cây “Chiến thá tọt” lá to mà dài. Cây này ngâm rượu để bóp đau lưng, chữa xương khớp là nhất. 1 trong 7 vị thuốc quý mà bà Cỏ dùng chữa xương gãy là cây Cắng Linh cây con khỉ. Bà Cỏ kể “Ngày xưa, người Nùng đi rừng, thấy con khỉ mẹ lấy thân cây này nhai nát, rồi đắp lên những chỗ gãy xương hoặc chảy máu của khỉ con, mới mang về chữa cho người”. Bao năm qua, rất nhiều lần bà thử trồng loài cây này mà không được vì cây chỉ ưa sống ở đỉnh núi đá. Đến lúc hết hi vọng, định phạt chỗ đất đi để trồng cây khác thì lại thấy một mầm xanh hé nhú, mọc thành cây Cắng Linh như bây giờ. Bài thuốc quý chữa gãy xương, bà cũng truyền lại cho con gái. Các cô cũng ghi, cũng học nhưng dường như chẳng ai còn muốn lên đỉnh núi cao tìm thuốc như bà ngày xưa. Thần chú của ông Vinh, thuốc quý của bà Cỏ chẳng mấy năm nữa mà thất truyền nếu không truyền được lại cho ai. Phó trưởng trạm y tế xã cũng phải đến “cầu” thuốc Trực tiếp dẫn người viết vào nơi cư ngụ của những người Nùng nắm bí quyết bài thuốc lạ thường, anh Hoàng Văn Cường – Phó trưởng trạm y tế xã Chi Lăng, phụ trách lĩnh vực Đông y,cho biết “Bà Cỏ có rất nhiều cây thuốc, bài thuốc quý, nhiều cây trong danh sách thảo dược của Nhà nước còn chưa có. Tôi cũng không ít lần đến nhà bà Cỏ để xin thuốc, đặc biệt xin quả mắc chẻ phạ để chữa đau răng.” Trang phục Dao Lù Gang ở Mẫu Sơn, Lạng SơnLạng Sơn có nhiều dân tộc anh em Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông… Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo mang bản sắc đặc trưng của từng dân nhiên, một thực trạng chung hiện nay, do sự phát triển nhanh của xã hội, sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc đã phần nào ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thị hiếu thẩm mỹ, một bộ phận không nhỏ người DTTS đã thay đổi thói quen mặc trang phục truyền thống bằng trang phục phổ thông, đặc biệt là ở lớp trẻ. Đặc biệt hiện nay, các làng nghề dệt thổ cẩm còn rất ít, các nghệ nhân biết dệt và may trang phục truyền thống ngày càng mai một; trang phục truyền thống bị pha tạp nhiều cả về chất liệu và kiểu dáng, khó phân biệt được trang phục của dân tộc nào…Trước thực trạng đó, ngày 18/1/2019, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL đã có Quyết định số 209 về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Triển khai thực hiện đề án trên, UBND tỉnh Lạng Sơn đã có Kế hoạch số 117/KH-UBND, ngày 3/7/2019 về việc thực hiện “Đề án bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Định kỳ hằng năm, Sở VHTT&DL đã triển khai thực hiện bằng các chương trình, hoạt động cụ thể. Trong đó, việc tổ chức hội nghị, hội thảo là một trong những bước thu thập, tổng hợp, công bố các tư liệu, tài liệu, kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ nhân, chủ thể văn hóa. Từ đó nhận diện, đánh giá một cách đồng bộ, thống nhất, toàn diện các thành tố liên quan đến trang phục truyền thống của các DTTS Việt Nam trên địa bàn phục của phụ nữ dân tộc Nùng Lạng SơnTại Hội thảo đã có gần 30 tham luận của các đại biểu là nhà quản lý văn hóa, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa trong và ngoài tỉnh Lạng Sơn đóng góp ý kiến tập trung vào hai chủ đề những biến đối của trang phục các DTTS hiện nay - nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng; báo chí Lạng Sơn với việc lan tỏa giá trị trang phục truyền thống các DTTS; bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị văn hóa trong trang phục truyền thống gắn với phát triển du lịch ở Lạng Sơn; tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức, hành động của cộng đồng về ý nghĩa, giá trị của công tác bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống…Hội thảo là cơ sở để Sở VHTT&DL tỉnh Lạng Sơn tiếp tục tham mưu đề xuất phương hướng, giải pháp bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trên địa bàn tỉnh gắn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương. Dân tộc Tày tỉnh Lạng Sơn sinh sống thành từng cụm dân cư, thành từng làng, từng bản từ lâu đời. Người dân dựng nhà ở những sườn đồi thoai thoải hoặc những bãi đất,gò đồi ven sông. Đời sống người dân chủ yếu bằng nghề làm ruộng, trồng lúa nương, trồng ngô khoai sắn. Dân tộc Tày Lạng Sơn nói chung và cư dân Tày vùng núi Mẫu Sơn nói riêng đều có những nét tương đồng về tín ngưỡng lập miếu thờ cúng thổ công, thổ địa. Với quan niệm rằng mỗi vùng đất dù nhỏ bé hay rộng lớn đều có một vị thần cai quản về vạn vật tự nhiên, về sự sống và mọi sinh hoạt của từng gia đình cư trú trên vùng đất thần mà dân làng thờ phụng, tôn làm thần bảo trợ, có thể là thần đất, thần cây, thần đá, thần núi, thần sông. Có vùng dân xây miếu thờ người có công khai phá lập nên làng bản và bảo vệ dân làng, sau khi mất được người dân tôn làm thần, xây miếu thờ thần thành hoàng. Phục dựng lễ cúng của người Tày cổ trên núi Mẫu Sơn Cư dân vùng Mẫu Sơn tỉnh Lạng Sơn phần lớn là dân tộc Tày, dân tộc Nùng và dân tộc Dao. Dân tộc Nùng sinh sống chủ yếu ở ba xã Hải Tiến, Cao Lâu, Xuất Lễ. Làng bản người Nùng xưa thường được xây dựng theo hình vành khuyên theo một hệ thống phòng thủ rất chắc chắn. Các ngôi nhà trình tường được xây dựng ở giữa, xung quanh làng có đắp hệ thống tường bao quanh bằng đất nện, hoặc bằng đá xếp. Người Nùng thường sống chung nhiều thế hệ trong một gia Nùng có làn điệu hát sli Sloong hàu lưu truyền đến ngày nay. Dân tộc Dao sinh sống ở những sườn núi cao thuộc xã Mẫu Sơn, xã Công Sơn huyện Cao Lộc và xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình. Dân tộc Dao vùng Mẫu Sơn đến nay vẫn giữ được những phong tục tập quán truyền thống về trang phục, nếp sống và có tín ngưỡng thờ cúng riêng biệt, thể hiện tính tín ngưỡng cộng đồng cao là miếu thờ thần trên đỉnh núi Phặt Chỉ cùng với những nghi thức lễ độc đáo của người Dao. Dân tộc Tày sinh sống ở địa bàn thấp dưới chân núi, sườn đồi, ven đường giao thông thuộc xã Gia Cát huyện Cao Lộc và các xã Xuân Lễ, Bằng Khánh, Xuân Mãn, Hữu Khánh, Yên Khoái. Đời sống kinh tế cư dân Tày tương đối ổn Tày dễ tiếp thu và hòa nhập với văn hóa cộng đồng. Người Tày rất ít khi mặc quần áo dân tộc, nếu có chỉ còn những người già từ 70 tuổi trở lên còn giữ được những bộ quần áo ngày xưa, chỉ mặc vào những ngày cưới, ngày lễ hội. Dân tộc Tày vùng Mẫu Sơn là cư dân bản địa, Có những dòng họ sinh sống từ rất lâu đời, như các dòng họ Hà, họ Vi, họ Nông, họ Hoàng. Nhà ở xưa được xây dựng bằng bùn đất đỏ đóng khuôn tường dày từ 60- 80 cm còn gọi là nhà trình tường. Tường nhà được đóng kiến trúc theo kiểu pháo đài, Cửa chính được đóng thành hai lớp, lớp ngoài bằng gỗ chắc dày, có then ngang ốp xuống, lớp cửa trong bằng trấn song gỗ tròn to chắc chắn. Gian ngoài hai bên là gường ngủ, chính giữa là nơi tiếp khách, phía trên tường được đóng thành khuôn lui sâu khoảng 1m làm ban thờ tổ tiên. Gian trong một bên là bếp, một bên là phòng ngủ. Trần nhà làm bằng đất trộn rơm, cốt là thanh tre già có tác dụng phòng cháy rất nhà lợp ngói âm dương. Nhà trình tường có tác dụng phòng vệ, chống trả được người ngoài xâm nhập. Ấm vào mùa đông, mát lạnh vào mùa hè. Kiến trúc nhà trình tường cũng là một nét đặc trưng của người dân vùng biên ải, ngày nay nhà trình tường đã bị mai một dần, thay thế bằng nhà xây gạch ngói hoặc nhà cao tầng. Ở xã Gia Cát huyện Cao Lộc chỉ còn 5 ngôi nhà trình tường cổ còn giữ được. Riêng ở xã Yên Khoái người dân vẫn ở còn đến 30% ngôi nhà trình tường. Kiến trúc nhà trình tường, làng xây dựng hình vành khuyên khu vực vùng Mẫu Sơn cần đưa vào những tua du lịch. Về tín ngưỡng, dân tộc Tày vùng Mẫu Sơn mang đậm tín ngưỡng dân gian bản địa, ngoài tục thờ cúng tổ tiên trong nhà, người dân xã Gia Cát huyện Cao Lộc còn lập chùa thờ Phật tại chùa Bắc Nga có tên chữ là "Tiên Nga Tự".Theo truyền thuyết Chùa Tiên Nga trước vốn thờ thần tiên sau rước Phật vào thờ. Ở hậu cung còn có phiến đá khắc chữ thập nhị Tiên Nga. Chùa Bắc Nga nổi tiếng với lễ hội du xuân ngày 15 tháng giêng, thu hút hàng vạn người đến chùa cầu an và thưởng thức đặc sản lợn quay, mía mềm vùng Gia Cát. Từng thôn bản, người Tày còn lập miếu thờ các vị thần linh, tiếng Tày gọi là Thó tỳ. Tại Viện Nghiên cứu Hán nôm hiện còn tư liệu lưu trữ sách viết về "Tục lệ và xã chí" của hai xã Hữu Khánh và Yên Khoái trước năm 1920, cuốn sách đã phản ánh chân thực về bản sắc, tín ngưỡng phong tục tập quán của cư dân thời kỳ đó. Trước kia điều đầu tiên trong phong tục tập quán là tế lễ thần linh. Thần linh ở đây là thần núi, thần cây, thần đá, thần nông được người dân xây miếu thờ và tế lễ vào những dịp đầu năm, cuối năm. Đến nay khi đi qua những bản Lìm, Sa Kao, Nà Bó, Pò Cại ở xã Gia Cát huyện Cao lộc. Bản Lầy, Phiêng Phúc xã Xuân lễ; Bản Tẳng, Nà Ngần, Kéo Mật, Pò Thó, Pò Lục, Khòn Khoang thuộc xã Bằng khánh; Bản Khoai, Pác Tẳng, Pác Mạ, Nà Quân, Nà Phát xã Yên khoái... chúng ta còn thấy thấp thoáng Miếu thờ thổ công ở đầu thôn bản. Ở vùng núi thôn Nặm Pịa xã Mẫu Sơn huyện Lộc Bình hiện nay còn dấu tích ngôi đền cổ thờ thần núi và nhân thần. Ngôi đền cổ này theo đánh giá của nhà sử học giáo sư Trần quốc Vượng đây là ngôi đền của người Tày cổ vào khoảng thế kỷ X. Trải qua nhiều thế kỷ, sự thay đổi của môi trường, lịch sử xã hội...đến thế kỷ XIX người dân lập miếu mời các vị thần trên đền cổ về thờ ở bản Khoai xã Yên khoái . Miếu thờ thần linh thổ công thường được xây dựng ở vị trí cao ráo, lưng tựa núi, miếu ẩn mình dưới gốc cây đa, cây si, cây gạo hoặc những cây cổ thụ. Hướng miếu thường nhìn ra ngã ba đường, sông suối, hoặc ở nơi đầu bản , nhìn ra nơi con người qua lại. Miếu dựng đơn giản chỉ bằng bốn cột gỗ, lợp mái tranh, hoặc lợp ngói âm dương, Bên trong miếu kê tấm ván, hoặc một tảng đá phẳng trên đặt bát hương. Miếu được dán giấy đỏ trong ban thờ và ngoài cửa. Những làng bản đông dân cư, miếu thờ được xây cất cẩn thận bằng trình tường, gạch, lợp ngói. Hàng năm tuần tự vào dịp lễ tết được quy định như mùng 15 tháng giêng; 2 tháng 2 âm lịch; mùng 3 tháng 3; mùng 5 tháng năm; mùng 6 tháng 6; 15 tháng 7; 15 tháng 8; mùng 6 tháng 10 và 23 tháng chạp người dân lên miếu làm lễ cúng thổ công. Nhất là ngày 2 tháng 2 âm lịch hàng năm là ngày cúng thần linh thổ công, các gia đình đều sắm lễ lên miếu cúng thần. Đồ lễ thường là con gà luộc, chai rượu trắng, bánh chưng, thịt lợn luộc, các loại rau sào... người đến trước kẻ đến sau, thầy mo làm lễ khấn trình thần linh với ước nguyện cầu xin thần linh bảo trợ, phù hộ cho một năm mới gia đình, làng xóm, người người từ con trẻ đến người già được khỏe mạnh, cửa nhà bình an. Gia đình chăn nuôi lợn gà, trâu bò ... được mau lớn, sinh sôi đầy đàn. Lúa ngô khoai sắn... mùa nối vụ bội thu, cuộc sống no đủ hạnh phúc. Khấn lễ xong với một niền tin tưởng thần linh đã chấp nhận lời thỉnh cầu của mình, mọi người bưng lễ ra trước miếu, cùng nhau uống rượu, thụ lộc vui vẻ. Xây chùa thờ Phật, lập đền, miếu thờ thổ công thần linh là một nét đẹp mang tính nhân văn trong phong tục tập quán của người Tày vùng núi Mẫu sơn. Tín ngưỡng thờ thổ công thần linh mang tính trách nhiệm, cộng đồng cao của người dân thôn bản trong những nghi thức ngày lễ tết. Mỗi ngôi miếu ở từng thôn bản đều có những giai thoại, truyền thuyết mang dấu ấn, lịch sử nguồn gốc về những vị thần được dân làng tôn vinh lập miếu thờ. Tìm hiểu được nguồn gốc của từng vị thần được thờ trong từng ngôi miếu sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hình thành địa bàn cư dân, dân tộc. Hơn nữa từ xưa tới nay, trong đời sống con người luôn luôn gặp những khó khăn về thiên tai dịch họa trong lao động sản xuất, những nỗi đau vì bệnh tật và những điều ngang trái mà con người ta không tự giải quyết được, người dân thường lên miếu lễ, khẩn cầu các vị thần linh giải thoát phù trợ cho tai qua nạn khỏi, mọi sự được bình an. Điều này tuy là không tưởng âu cũng là con người có niềm tin ngoài cõi hư vô. Hệ thống tín ngưỡng chùa, đền cổ, miếu thờ thổ công của dân tộc Tày vùng núi Mẫu sơn rất có giá trị để các nhà khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc. Là một hệ thống tín ngưỡng thờ Phật, thờ Thần để các du khách có niềm tin, có tâm linh đến thăm quan, hành lễ. Để có một tua du lịch tín ngưỡng cần phải nghiên cứu, lập hệ thống danh sách, lịch sử nguồn gốc của từng ngôi miếu trong từng thôn bản giới thiệu với khách du lịch vùng núi Mẫu Sơn. Trung tâm Thông tin Xúc tiến du lịch Lạng Sơn Dân tộc Nùng có tỷ lệ 42,9% dân số tỉnh Lạng Sơn, là dân tộc có tỷ lệ cao nhất, sinh sống khắp tỉnh. Hiện ở Lạng Sơn có 3 nhóm dân tộc Nùng gồm Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Phàn Slình Nùng Phàn Slình Cúm Cọt, Nùng Phàn Slình Hua Lài và Nùng Phàn Slình áo dài. Mỗi nhóm đều có sự trang trí trên trang phục khác nhau, ví dụ như dân tộc Nùng Phàn Slình thường có những đường chỉ nổi và thêu sặc sỡ phần cổ và phần vạt áo, nhưng đối với dân tộc Nùng Cháo trang phục lại được thêu với phần chỉ chìm kín đáo. Đa phần trang phục của dân tộc Nùng thiên về tạo dáng với phần thân áo ngắn được xẻ tà và quần may rộng rãi. Ngoài ra, trên trang phục của phụ nữ Nùng còn phải kể tới một số đồ trang sức làm bằng kim loại đeo trên người như vòng tay, vòng cổ, hoa tai…Trang phục nam của các nhánh dân tộc Nùng cơ bản là giống nhau. Kiểu dáng áo ngắn, may sát người, tay áo dài và khá rộng, cổ áo khoét tròn, áo có 7 cúc tiếng Nùng gọi là chất kháu và thường có 2 túi. Màu sắc chủ đạo là màu chàm, đen. Quần được cắt may theo kiểu chéo gọi là tải dáng, ống quần rộng, đai quần được giữ bằng chun. Bộ trang phục của người Nùng Phàn Slình Cúm Cọt được làm từ vải nhuộm chàm, ít hoa văn. Để bộ trang phục của mình nổi bật, Người phụ nữ Nùng Phàn Slình Cúm Cọt thêu chỉ màu và các hạt bạc nhỏ lên chiếc khăn đội đầu. Phụ nữ Nùng Phàn Slình Cúm Cọt thường mặc áo 5 thân màu chàm bên ngoài, bên trong sẽ mặc áo kẻ xanh hoặc kẻ đỏ, cổ áo có đính tua chỉ màu xanh, phần tua chỉ này sẽ được lộ ra bên ngoài khi mặc để tạo điểm nhấn cho chiếc áo màu chàm. Quần thường rộng khổ, gấu quần không thêu thùa, quần đũng chân què, cặp lá tọa. Khi mặc quấn dây lưng quanh bụng, hai đầu dắt mối ở hai bên hông. Phụ nữ dân tộc Nùng Phàn Slình Cúm Cọt Tên gọi Nùng Phàn Slình Hua Lài nghĩa là Nùng Phàn Slình Đầu Chấm Trong tiếng Nùng, “Hua” nghĩa là “Đầu”, “Lài” nghĩa là “Chấm”. Tên gọi này được bắt nguồn từ chiếc khăn đội đầu của người phụ nữ Nùng. Trên nền khăn màu chàm, người phụ nữ thêu những hạt màu trắng theo hàng tạo nên những đốm nhỏ nổi bật. Mỗi lần đội lên đầu, người phụ nữ được ví như đang đội trên đầu một bầu trời sao. Áo phụ nữ thường 4 thân hoặc 5 thân màu chàm. Áo ngắn được may rộng cả phần thân và tay, giúp người mặc thoải mái hơn trong đời sống sinh hoạt hằng ngày hoặc khi lao động sản xuất. Cổ tay áo và phía trước ngực được đắp thêm một miếng vải khác màu tạo nên nét đặc sắc cho bộ trang phục. Quần của phụ nữ may kiểu đũng chéo chân què, cạp lá tọa. Khi mặc, dùng giải rút luồn vào phần cạp quần và buộc thắt lại. Ngày nay, quần đũng chéo dần được thay thế bằng quần lụa hoặc vải sa-tin gấp nếp 2 ống tạo đường nét mềm mại hơn. Phụ nữ dân tộc Nùng Phàn Slình Hua Lài Sau khi dệt những mảnh vải bằng khung cửi gỗ, người dân tộc Nùng lấy lá và thân cây chàm về ngâm vào chum nước khoảng một tháng cho đến khi nhàu nát. Sau đó lọc lấy nước rồi trộn thêm một ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát tạo thành hỗn hợp nước màu xanh lam đậm hay còn gọi là màu chàm. Xưa kia, Việc thêu thùa với con gái người Nùng rất được coi trọng. Nhìn vào từng đường kim mũi chỉ có thể biết được đâu là cô gái khéo léo, đảm đang. Khi về nhà chồng họ sẽ mang theo chăn, gối tự làm và coi đó như “của hồi môn” cho hạnh phúc lứa đôi. Họa tiết thổ cẩm được phối hợp giữa nhiều màu chỉ, thêu riêng từng màu. Tất cả họa tiết thổ cẩm đều được thêu tay trên nền vải chàm truyền thống. Đó là sự cách điệu họa tiết hình hoa lá, mặt trời... Trên những chiếc áo chàm, phần khuy áo được làm thủ công, đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất. Phải tốn hơn 3 ngày mới khâu xong hàng khuy áo đều đặn, đẹp mắt. Tất cả họa tiết thổ cẩm được thêu trên nền vải chàm, họa tiết đối xứng. Ngày nay, dù cuộc sống hiện đại và bận rộn hơn trước nhưng người dân tộc Nùng ở một số huyện trên địa bàn tỉnh vẫn mặc trang phục truyền thống trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Đó là cách để gìn giữ, bảo tồn những nét đẹp trong văn hóa và trang phục của người dân tộc Nùng. Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Lạng Sơn NDO - Dân tộc Nùng là một trong những sắc dân có dân số đông ở Việt Nam, sinh sống phần lớn ở các tỉnh miền núi phía bắc. 1. Nguồn gốc lịch sử Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm. 2. Dân số Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, người Nùng có người. Trong đó, có nam và nữ. 3. Ngôn ngữ Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái ngữ hệ Thái – Kađai. 4. Phân bố địa lý Dân tộc Nùng sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lào Cai, Yên Bái. 5. Đặc điểm chính Nhà ở Ngôi nhà truyền thống tiêu biểu của dân tộc Nùng là ngôi nhà sàn, lợp ngói máng, có ba tầng sử dụng. Tầng 1 là gầm sàn dành cho gia cầm, gia súc, công cụ sản xuất; tầng 2 là sàn dành cho người ở và các đồ dùng sinh hoạt; tầng 3 là gác, làm kho chứa lương thực, các thứ khác được bảo quản ở nơi khô ráo. Phía trước nhà có sàn phơi. Ở một số vùng, người Nùng làm nhà trình tường. Trong nhà ở của người Nùng, bếp không chỉ để nấu ăn, mà còn để sưởi ấm, nhất là mùa đông giá lạnh. Người Nùng trong trang phục Then.Ảnh KHIẾU MINH • Trang phục Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông. Phụ nữ Nùng đội khăn vuông, chít kiểu mỏ quạ. Nam giới Nùng đội mũ, nhất là khi tiến hành các nghi lễ mang tính tâm linh. • Ẩm thực Người Nùng cũng ăn cơm gạo tẻ, ăn xôi và chế biến nhiều món ăn từ gạo tẻ và gạo nếp. Từ gạo tẻ, đồng bào làm cao quyển, cao xằng, từ gạo nếp chế biến xôi màu tím, đen, đỏ, vàng, xôi trám đen, xôi trứng kiến; chế biến thành các loại bánh. Ngoài các món ăn thông thường, người Nùng có một số món ăn đặc sản gắn với các dịp lễ tiết. Vào dịp tết Nguyên đán, người Nùng hay mổ gà trống thiến, gói bánh chưng loại bánh dài. Tết cuối tháng Giêng, đồng bào hay làm bánh ngải bánh dày với lá ngải cứu non... Ngày cưới, ngày sinh nhật nhất định phải có món lợn quay nhồi lá mắc mật. • Tôn giáo, tín ngưỡng Người Nùng tin theo tín ngưỡng đa thần là chính. Họ thường thờ ba đời bố mẹ, ông bà, cụ. Thờ cúng thần linh được thực hiện thông qua các lễ hội lùng tùng, cầu mùa. Trong cách thờ cúng cũng như các quan niệm ứng xử thể hiện dấu ấn của tam giáo Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo. Trong thực hành tín ngưỡng của dân tộc Nùng, nổi bật vai trò của các thầy cúng Tào, Mo, Pựt, Then. -Nghệ thuật Nét đặc trưng nhất trong văn nghệ dân gian của dân tộc Nùng là then. Đây là một nghi thức trình diễn vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính tâm linh. Thầy Then là người sáng tạo cả về lời ca và giai điệu. Cây đàn tính không có phím cho nên thầy Then hoàn toàn có thể ngẫu hứng tạo âm trên cây đàn. Mang yếu tố tâm linh khi gắn liền với nhiều nghi lễ cúng cầu, nhưng Then cũng hoàn toàn mang tính lễ hội khi gắn với những sự kiện trong cuộc đời con người, hoặc vào những dịp mừng năm mới…. Một loại dân ca rất đặc trưng khác của người Nùng là sli. Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè. Điều kiện kinh tế Về trồng trọt, người Nùng canh tác ở những vùng đất bằng phẳng và cả những nơi đất dốc, đất đồi, vườn quanh nhà. Lúa nước là cây trồng truyền thống của đồng bào Nùng. Việc trồng cây hồi và bán các sản phẩm từ hồi cũng mang lại thu nhập cho đồng bào. Ngoài ra, người Nùng còn trồng các loại cây có giá trị cao khác như trẩu, sở, thuốc lá, chè, mía, tre, trám, bông, chàm... Chăn nuôi có một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế cũng như trong đời sống sinh hoạt của người Nùng. Vật nuôi phổ biến là trâu, bò, ngựa, dê, lợn; gà, vịt, ngan, ngỗng; chó, mèo; ong, tằm, cá nuôi ở ao hoặc ngay ruộng lúa. Họ biết làm nhiều nghề thủ công dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nổi bật là nghề rèn được duy trì và ngày càng phát triển, đặc biệt ở xã Phúc Sen huyện Quảng Hoà, Cao Bằng. Chợ ở vùng người Nùng phát triển, đặc biệt tập trung nhiều người Nùng đông nhất vào những ngày phiên truyền thống. Với địa bàn tụ cư truyền thống ở các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc, người Nùng có các hoạt động mậu biên sôi nổi. Không chỉ buôn bán tiểu ngạch, người Nùng còn tham gia làm bốc xếp, xe ôm, làm thuê trong sản xuất nông nghiệp. Các hoạt động này diễn ra cả ở nội địa và bên kia biên giới. Điều kiện giáo dục Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 90%; tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học 100,9%; ở cấp trung học cơ sở là 97,2%; ở cấp trung học phổ thông 73,4%. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân tộc mình là 14,3%. Tỷ lệ trẻ em dân tộc Nùng trên 5 tuổi được đi học chiếm 99,6%. Nguồn - Các dân tộc ở Việt Nam Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật - Đặc trưng cơ bản của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê - Website Ủy ban Dân tộc - Kết quả điều tra thu thập thông tin về tình trạng kinh tế xã hội của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 Ủy ban Dân tộc Việt Nam – Tổng cục Thống kê

dân tộc nùng lạng sơn